Giai đoạn dựng nước và giữ nước đầu tiên trong lịch Việt Nam đã chứng kiến sự ra đời của nhà nước Văn Lang là nhà nước đầu tiên ở Việt Nam. Văn Lang là một nước độc lập, tự chủ, có lãnh thổ, luật pháp riêng, xã hội phát triển thịnh vượng cùng đời sống văn hóa trù phú đến nỗi đi vào truyền thuyết dân tộc cho đến tận ngày nay. Mời các bạn tìm hiểu tất tần tật lịch sử ra đời và hình thành của nhà nước Văn Lang qua bài viết này nhé!
Xem thêm:Lịch sử vương quốc Champa: Từ đế chế hùng mạnh đến suy vong
Nhà nước Văn Lang ra đời vào thời gian nào?
Đầu tiên, chúng ta cần biết nhà nước Văn Lang ra đời vào thời gian nào trong mốc lịch sử Việt Nam.
Vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên (2879 TCN), trên cơ sở phát triển rực rỡ của văn hóa Đông Sơn, nhà nước cổ đại đầu tiên ở Việt Nam là nhà nước Văn Lang ra đời , với kinh đô Phong Châu (Việt Trì, Phú Thọ ngày nay) ra đời. Đến khoảng thế kỷ III trước Công nguyên (258 TCN), nhà nước Văn Lang ngày càng suy yếu, nhân thời cơ đó Thục Phán An Dương Vương đã thống nhất cư dân u Việt và Lạc Việt lập ra nhà nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa (Hà Nội). Do đó, dân gian quan niệm rằng nước Văn Lang đời trong thời kỳ của các vị vua Hùng cách ngày nay khoảng hơn 4000 năm văn hiến.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư của sử gia Ngô Sĩ Liên viết ở thế kỷ 15, Lạc Long Quân (theo truyền thuyết là cháu 5 đời của Thần Nông) cùng vợ là u Cơ (con gái Đế Lai) sinh được 100 người con trai; 50 người theo cha về bờ Biển Đông, 50 người theo mẹ về núi và suy tôn người con cả lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc - Phú Thọ.
Bản đồ mô phỏng nước Xích Quỷ, nước Văn Lang, trung tâm từng thời kỳ và các dòng di cư hình thành các quốc gia. Nguồn:Lược Sử Tộc Việt, designer: Quốc Toản.
Sự suy vong của nhà nước Văn Lang:Vào khoảng cuối thời Hồng Bàng, theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) và Đại Việt Sử Ký, vì vua Thục nhiều lần đánh Văn Lang, nhưng vì quân mạnh, ai cũng đánh thua nên vua Hùng ngày càng chủ quan, không lo chuyện triều chính, quân sự. Trong cung ngày ngày chỉ đơn giản là uống rượu và tiệc tùng cho vui. Năm 258 TCN, cháu vua Thục Phán ra đánh, vua còn đang say thì quân Thục tiến đến vua nhảy xuống giếng tự tử, quân sĩ đầu hàng. Thục Vương tiếp quản đất nước, thống nhất và thành lập nước u Lạc.
Nhà nước Văn Lang ra đời trong hoàn cảnh nào?
Lãnh thổ nhà nước Văn Lang nằm trên khu vực ven các sông lớn ở đồng bằng Bắc bộ và Bắc trung bộ. Ban đầu là những bộ lạc dưới quyền cai quản của các thủ lĩnh, các bộ lạc này có nhiều điểm tương đồng như các sinh hoạt, tiếng nói, cách thức sản xuất,...
Giữa các chiềng, chạ dần xảy ra mâu thuẫn do quyền lợi của người dân không đồng đều như là sự phân chia của cải, sự phân công lao động. Mặt khác ở ven các con sông lớn nên việc sản xuất nông nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn khi mùa mưa lũ đến.
Do đó, cần phải có người chỉ huy để chỉ đạo người dân sản xuất, ngăn chặn lũ lụt, bảo vệ mùa màng và đấu tranh chống xung đột. Vì vậy, nhà nước Văn Lang đã ra đời trong hoàn cảnh phức tạp trên.
a) Ý nghĩa tên gọi của nhà nước Văn Lang
Tên gọi Văn Lang có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ Blang hay Klang. Theo đó tổ tiên của người dân Mường là con chim ay và ua. Vùng đất Mê Linh là tên gọi bắt nguồn từ loài chim có tên Mling. Còn vùng đất Bạch Hạc giống với biểu tượng con chim trắng nhảy múa trên cánh đồng, ta có thể thấy hoạ tiết này trên trống đồng Đông Sơn vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
b) Kinh đô nước Văn Lang đặt ở đâu? Lãnh thổ của nước Văn Lang
Theo sử sách có ghi lại kinh đô của nước Văn Lang được đặt ở Bạc Hầu nay là thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đây là nơi hội tụ của 3 dòng sông lớn là sông Hồng, sông Lô và sông Đà. Đây là vùng đất địa linh, có các yếu tố cần thiết để phát triển nông nghiệp lúa nước.
Nhà nước Văn Lang có lãnh thổ phía đông giáp Nam Hải (tức Biển Đông), Tây tới Ba Thục, Bắc tới hồ Động Đình, Nam tới nước Hồ Tôn Tinh (còn gọi là nước Hồ Tôn, sau này là Chiêm Thành); lãnh thổ chia thành 15 bộ, còn gọi là quận. Còn dựa trên các di tích văn hóa đồ đồng đã được phát hiện, cho thấy lãnh thổ nước Văn Lang bao gồm khu vực Bắc bộ và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, có thể kéo dài tới Quảng Trị.
c) Các vị thủ lĩnh tối cao nhà nước Văn Lang
Sử cũ gọi người đứng đầu nhà nước Văn Lang là Vua Hùng, tức Hùng Vương. Các đời vua kế tiếp của nhà nước Văn Lang đều lấy danh hiệu đó.
Truyền thuyết kể lại rằng vua Hùng bắt đầu từ thời xã hội Văn Lang tồn tại. Đứng đầu nước Văn Lang là các thủ lĩnh tối cao, được biết đến với tôn hiệu Hùng Vương. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo.
Nước Văn Lang tồn tại qua mấy đời vua?
Nhà nước Văn Lang trải qua sự cai trị của 18 đời vua Hùng kéo dài trong 2.622 năm. Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần cho rằng 18 vua Hùng không phải là 18 người cụ thể, mà là 18 chi (nhánh/ngành); mỗi chi có nhiều vị vua thay phiên nhau trị vì và dùng chung vương hiệu. Thậm chí con số 18 có thể chỉ nên hiểu là con số tượng trưng ước lệ, vì 18 là bội số của 9 - vốn là con số thiêng trong văn hóa người Việt.
18 đời vua Hùng gồm:
- Kinh Dương Vương - vị vua viễn tổ.
- Lạc Long Quân - vị vua cao tổ.
- Hùng Quốc Vương - vị vua mở nước.
- Hùng Diệp Vương - Bảo Lang.
- Hùng Huy Vương - Viên Lang.
- Hùng Huy Vương (cùng hiệu với đời thứ 5) huý Pháp Hải Lang.
- Hùng Chiêu Vương - Lang Tiên Lang.
- Hùng Vi Vương - Thừa Vân Lang.
- Hùng Duy Vương - Quốc Lang.
- Hùng Uy Vương Vương - Hùng Hải Lang.
- Hùng Chính Vương - Hùng Đức Lang.
- Hùng Việt Vương - Đức Hiền Lang.
- Hùng Việt Vương - Tuấn Lang.
- Hùng Anh Vương - Châu Nhân Lang.
- Hùng Chiêu Vương - Cảnh Chân Lang.
- Hùng Tạo Vương - Đức Quân Lang.
- Hùng Nghị Vương - Bảo Quang Lang.
- Hùng Duệ Vương - Huệ Lang.
Xem thêm: Vua Hùng là ai? Tìm hiểu lịch sử 18 đời vua Hùng
Tổ chức bộ máy nhà nước Văn Lang
Có thể nói, Nhà nước Văn Lang là dạng nhà nước sơ khai, không thể xếp vào dạng nào trong 5 hình thái nhà nước của lịch sử phát triển thế giới; sự phân hóa xã hội và phân chia giai cấp chưa rõ rệt, nhưng chắc chắn đã hình thành sự phân tầng. Quyền lực của giai cấp thống trị chưa thấy xuất hiện ở thời đại này, thể hiện qua việc phong tục thuần hậu, mộc mạc, “vua tôi cùng đi cày, cha con tắm chung sông không chia giới hạn, không phân biệt uy quyền, thứ bậc” (Lịch triều hiến chương loại chí).
Ban đầu, nước Văn Lang thành lập còn rất sơ khai, bộ máy tổ chức còn khá đơn giản, đứng đầu nhà nước là Hùng Vương, ngôi Hùng Vương theo hình thức cha truyền con nối. Về bản chất, Hùng Vương chỉ là thủ lĩnh cao nhất trong cộng đồng các bộ lạc được các tù trưởng bộ lạc tôn phục và nghe theo.
Cho nên, chúng ta có thể hiểu là vua Hùng là từ chỉ chức danh của người tù trưởng bộ lạc Văn Lang, bộ lạc lớn mạnh nhất trong tất cả các bộ lạc định cư vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nước ta bấy giờ và cũng là bộ lạc giữ vai trò trung tâm liên kết, tập hợp các bộ lạc khác.
Các bộ lạc liên minh lại đã dẫn đến sự ra đời quốc gia, nhà nước Văn Lang. Hùng Vương trở thành thủ lĩnh của cả liên minh bộ lạc, sau đứng đầu một tổ chức nhà nước sơ khai.
Dưới Hùng Vương và giúp việc cho Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Nước Văn Lang có 15 bộ (trước là 15 bộ lạc). Lạc tướng (trước đó là tù trưởng) cũng thế tập cha truyền con nối, còn gọi là phụ đạo, bố tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn (bấy giờ có tên ghi là kẻ, chạ, chiềng). Đứng đầu kẻ, chạ, chiềng là các bồ chính (có nghĩa là già làng). Bên cạnh bồ chính có lẽ còn có một nhóm người hình thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng công xã để tham gia điều hành công việc của công xã nông thôn. Mỗi công xã có nơi trung tâm hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng.
Như vậy, so với chế độ công xã nguyên thủy, với xã hội của các thị tộc trước đó, Nhà nước Văn Lang đã đưa toàn bộ các bộ lạc Việt cổ bước sang một thời đại mới, phù hợp với tiến trình phát triển của thế giới.
Nhà nước Văn Lang còn sơ khai chưa có luật pháp và quân đội. Khi có chiến tranh xảy ra các vua Hùng và các Lạc tướng kêu gọi, huy động lực lượng thanh niên ở các chiềng chạ tập hợp lại để chống lại quân thù. Vũ khí ở thời kỳ này sử dụng cho chiến tranh chủ yếu là các loại vũ khí thô sơ như: gậy gộc, đá, một số vũ khí bằng đồng.
Những thành tựu rực rỡ của thời kỳ nhà nước Văn Lang
Đời sống vật chất và tinh thần của người dân Văn Lang - u Lạc được phản ánh qua truyện truyền thuyết, thư tịch cổ Việt Nam, thư tịch cổ Trung Quốc... và qua hàng loạt các di tích, lễ hội ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (đậm đặc nhất ở Phú Thọ); cùng với đó là những phát hiện khảo cổ về văn hóa Đông Sơn như: sưu tập trống đồng, công cụ lao động, vũ khí, mộ táng… đã minh chứng cho sự tồn tại của nhà nước Văn Lang - u Lạc thời kỳ đầu dựng nước, thời kỳ đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của đất nước Việt Nam.
a) Nông nghiệp
Thời đại Văn Lang có sự phát triển mạnh về nông nghiệp. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, cư dân Văn Lang đã biết trồng lúa nước, theo nước triều lên xuống mà làm ruộng, gọi là ruộng Lạc; biết khắc phục thiên nhiên (truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh), sử dụng dụng cụ nông nghiệp (cày, cuốc, mai, thuổng) và dùng sức trâu bò thay sức người, nhờ vậy người dân có cuộc sống vật chất và tinh thần khá phong phú. Với nguồn lương thực chính là thóc gạo (gạo nếp và gạo tẻ), dân Văn Lang đã biết lấy ống tre thổi cơm (cơm lam), làm bánh (sự tích bánh chưng, bánh giầy); ngoài ra còn có khoai, sắn, thực phẩm có các loại cá, gia súc, gia cầm, rau củ. Đặc biệt, thời này người dân đã biết làm mắm và nước mắm, cũng biết lấy gạo làm rượu, men rượu được chế biến từ lá, vỏ, rễ một số loại cây, giống như rượu cần ngày nay.
b) Các phong tục, tập quán, tín ngưỡng đa dạng
Cư dân Văn Lang có tập quán ở nhà sàn, nhuộm răng đen, ăn trầu (sự tích trầu cau), xăm mình. Theo Lĩnh Nam chích quái, dân ở rừng núi xuống sông ngòi đánh cá thường bị giao long (thuồng luồng) làm hại nên tâu lại với Hùng Vương. Hùng Vương bảo dân ta ở núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại. Bèn dạy dân lấy mực xăm hình thủy quái trên người, tránh được nạn giao long cắn hại. Tục xăm mình của người Việt cổ bắt đầu từ đây.
Tín ngưỡng phổ biến của cư dân Văn Lang là sùng bái tự nhiên, thờ thần Mặt Trời (ngôi sao nhiều cánh ở giữa mặt trống đồng là tượng trưng cho thần Mặt Trời), thần Sông, thần Núi… Người Việt cũng có tín ngưỡng phồn thực thể hiện niềm tin của con người trong nguyện cầu được sinh sôi nảy nở, phát triển giống nòi, ước mong sản xuất phồn thịnh, mùa màng được bội thu, nhưng không thờ sinh thực khí. Ngoài ra, người Việt cổ còn có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng kính các vị anh hùng, người có công với làng nước (thờ Thánh Gióng, thần Tản Viên…), mà đỉnh cao là tục thờ cúng Hùng Vương. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10-3 âm lịch là ngày lễ truyền thống của Việt Nam được giữ gìn, kế thừa đến tận ngày nay.
c) Trang phục, vũ khí
Ban đầu, người dân Văn Lang lấy vỏ cây làm áo mặc, phụ nữ mặc áo váy, nam giới đóng khố; biết dệt cỏ ống làm chiếu nằm, sau đó biết sáng chế dụng cụ xe sợi bằng đất nung - tiền đề của việc dệt vải. Cả nam lẫn nữ đều thích dùng đồ trang sức. Người dân cũng biết gác cây làm nhà để tránh thú dữ, giống nhà sàn hiện nay.
(Tranh vẽ tô màu mô phỏng con người và trang phục của Nhà Nước Văn Lang, một sản phẩm được thiết kế độc quyền tại Twinkl)
d) Thời kỳ đồ đồng phát triển cực thịnh với “trống đồng Đông Sơn”
Một thành tựu lớn khác là người dân biết sử dụng đồ đồng. Tư liệu khảo cổ cho thấy giai đoạn cực thịnh của nền văn hóa Đông Sơn là trong thời đại Hùng Vương. Khu vực phía Bắc nước ta vốn có nhiều mỏ kim loại như: vàng, bạc, chì, sắt, đồng. Một số mỏ nông và lộ thiên, dễ khai thác thủ công, là điều kiện phù hợp để phát triển một nền văn hóa đồ đồng rực rỡ mà đỉnh cao là trống đồng cùng các loại thạp, thố với tỷ lệ hợp kim nguyên liệu lý tưởng và hoa văn sắc sảo miêu tả chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ này như lễ “khánh thành” trống đồng, lễ chiêu hồn, đám tang, lễ cầu mùa, giã gạo, đánh trống, bơi chải...
Ngày mùng 10 tháng 03 năm âm lịch hằng năm, toàn dân đều tổ chức ngày Giỗ tổ để tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước một cách trang nghiêm và ca dao cũng có câu:
" Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng Ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm"
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hai lần về thăm Đền Hùng vào ngày 19 tháng 09 năm 1954 và ngày 19 tháng 08 năm 1962. Bác đã từng nói: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước".
Sự ra đời của nhà nước Văn Lang còn rất sơ khai nhưng đã phần nào đánh dấu cho bước phát triển mạnh mẽ cho thời đại lịch sử của Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ dựng nước và giữ nước của người Việt, cho nền văn minh sông Hồng.
Xem thêm:
- Tìm hiểu lịch sử trống đồng Đông Sơn: Tinh hoa văn hóa Việt Nam
- Lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước Âu Lạc
Tải Xuống Tài Liệu Tiếng Việt Theo Chủ Đề Giỗ Tổ Hùng Vương!
Twinkl có hàng ngàn tài liệu bài giảng và tài liệu học tập các chủ đề cho bạn và bé. Dưới đây là những tài liệu chủ đề Giỗ Tổ Hùng Vương thú vị giúp học sinh tìm hiểu về nguồn gốc lịch sử, văn hóa các đời vua Hùng Việt Nam. Tham khảo và tải xuống luôn nhé!
- PowerPoint Truyện Song Ngữ Sự Tích Bánh Chưng Bánh Giầy
- PowerPoint Truyện Song Ngữ Con Rồng Cháu Tiên
- Powerpoint Tóm Tắt Truyện Sơn Tinh Thủy Tinh Song Ngữ Cho Bé
- PowerPoin Song ngữ Lịch sử, ý nghĩa ngày Giỗ Tổ Hùng Vương
- PowerPoint Game Đố vui Giỗ Tổ Hùng Vương