ThS. Phạm Thị Hồng NhungTrường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên
(Quanlynhanuoc.vn) - Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quy luật giá trị hoạt động một cách khách quan và có những tác động lớn vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Bài viết, tập trung phân tích nội dung quy luật giá trị của C. Mác và sự vận dụng quy luật giá trị vào phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay, từ đó, đề xuất một số giải pháp để ngành Nông nghiệp của tỉnh phát triển theo hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, nâng cao giá trị sản phẩm và đáp ứng nhu cầu thị trường.
Từ khóa: Quy luật giá trị; nông nghiệp hàng hóa; sản xuất nông nghiệp; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; C. Mác.
1. Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển lớn mạnh của đất nước, dưới tác động của những quy luật kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường, trong đó có quy luật giá trị và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, tỉnh Thái Nguyên đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế. Từ một tỉnh dựa vào nông nghiệp là chính, Thái Nguyên đã trở thành trung tâm và cực tăng trưởng của vùng Trung du, miền núi phía Bắc. Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có chuyển dịch tích cực, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, năng suất lao động nâng lên rõ rệt… Năm 2024, trong cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống chỉ còn chiếm 9,76 % nhưng với 59,3% dân số ở khu vực nông thôn1 thì ngành Nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm và an sinh xã hội. Do vậy, vận dụng các quy luật trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật giá trị vẫn có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
2. Lý luận quy luật giá trị của C. Mác
Quy luật giá trị là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động, phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở của hao phí lao động xã hội cần thiết.
Nội dung của quy luật giá trị: (1) Trong sản xuất, người sản xuất phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết, có như vậy mới bán được hàng hóa và giành được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. (2) Trong lưu thông, trao đổi hàng hóa phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt.
Quy luật giá trị hoạt động theo cơ chế: giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động của quy luật giá trị biểu hiện thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các yếu tố, như: cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Do vậy, trên thực tế, giá cả của hàng hóa thường tách rời giá trị và lên xuống quanh trục giá trị của nó.
Quy luật giá trị có ba tác động: (1) Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; (2) Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động; (3) phân hóa những người sản xuất thành người giàu, người nghèo. Quy luật giá trị điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế; điều tiết hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, góp phần làm cho cung - cầu hàng hóa cân bằng, điều chỉnh sức mua của thị trường… Đồng thời, quy luật giá trị yêu cầu các nhà sản xuất phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới… Từ đó, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, hàng hóa phong phú, đa dạng, chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Bên cạnh tác động tích cực, quy luật giá trị cũng có tác động tiêu cực là phân hóa những người sản xuất thành người giàu, người nghèo.
Trong cạnh tranh, những người sản xuất có trình độ năng lực giỏi, hao phí cá biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội sẽ trở nên giàu có. Ngược lại, những người có kinh nghiệm sản xuất thấp kém, trình độ công nghệ lạc hậu, giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội dễ lâm vào tình trạng thua lỗ, phá sản, thậm chí phải đi làm thuê. Trong nền kinh tế thị trường thuần túy, chạy theo lợi ích cá nhân, đầu cơ, gian lận, khủng hoảng kinh tế… là những yếu tố có thể làm tăng thêm tác động phân hóa sản xuất cùng những tiêu cực về kinh tế - xã hội khác.
Quy luật giá trị vừa có tác dụng tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Các tác động đó diễn ra một cách khách quan trên thị trường nên cần có sự điều tiết của Nhà nước để đưa nền kinh tế phát triển đúng hướng.
3. Vận dụng quy luật giá trị của C. Mác vào phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh Thái Nguyên
Một là, trong lĩnh vực sản xuất.
Những năm qua, tỉnh Thái Nguyên đã đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch tăng trưởng từ số lượng sang chất lượng và nâng cao giá trị sản xuất của sản phẩm nông nghiệp; tăng những ngành hàng, sản phẩm có lợi thế về sản xuất và thị trường tiêu thụ. Đồng thời, tỉnh cũng tập trung phát triển các nhóm sản phẩm là lợi thế, đặc sản, chủ lực của địa phương; hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng của ngành Nông nghiệp của tỉnh không ngừng tăng lên qua các năm, thu nhập và đời sống của người dân dần được cải thiện, nông thôn được đổi mới.

Tốc độ tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh không ngừng tăng lên qua các năm. Nếu như năm 2019, tốc độ tăng trưởng là 3,48% thì đến năm 2023, đã tăng lên 4,07%. Năm 2024, mặc dù ngành Nông nghiệp vẫn duy trì mức tăng trưởng và đáp ứng nhu cầu của người dân nhưng tốc độ tăng trưởng thấp, chỉ tăng 1,2% (đây là mức thấp nhất từ năm 2018 trở lại đây)2. Nguyên nhân là do ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 và hoàn lưu sau bão tháng 9 gây mưa lớn kéo dài, rất nhiều khu vực trong tỉnh bị ngập úng đã gây thiệt hại nặng về trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản.
Cơ cấu trong nội bộ ngành Nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên cũng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng của ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng các ngành chăn nuôi, dịch vụ. Đến năm 2024, cơ cấu kinh tế nội ngành là: nông nghiệp chiếm 94,2% (trồng trọt: 46,1%, chăn nuôi: 47,4%, dịch vụ nông nghiệp: 6,5%), lâm nghiệp: 3,2%, thủy sản: 2,6%3. Tái cơ cấu trong nội bộ ngành Nông nghiệp đã nâng cao giá trị gia tăng và sự phát triển bền vững. Tỉnh tập trung vào các cây trồng chủ lực (chè, lúa, rau, cây ăn quả…), đẩy mạnh dồn điền đổi thửa, sản xuất hàng hóa quy mô lớn…
Trong các cây trồng chủ lực của tỉnh, cây chè tiếp tục phát huy thế mạnh với diện tích, năng suất, sản lượng và giá trị thu nhập từ cây chè lớn nhất toàn quốc. Hiện toàn tỉnh có trên 22,2 nghìn ha chè, 193 sản phẩm trà được chứng nhận tiêu chuẩn OCOP từ 3 - 5 sao, giá trị sản phẩm trà đạt 13,8 nghìn tỷ đồng4. Các vùng sản xuất chè tập trung nổi tiếng của tỉnh Thái Nguyên có thể kể đến như: Tân Cương, Phúc Trìu (thành phố Thái Nguyên); Vô Tranh, Tức Tranh (huyện Phú Lương), Minh Lập (huyện Đồng Hỷ); Hoàng Nông (huyện Đại Từ)…
Ngoài ra, tỉnh còn có các vùng sản xuất các sản phẩm chủ lực khác, như: sản xuất rau ở thành phố Thái Nguyên và các huyện: Đại Từ, Phổ Yên, Phú Lương; sản xuất na ở La Hiên (huyện Võ Nhai), Quang Sơn (huyện Đồng Hỷ)…; sản xuất bưởi ở các huyện: Đại Từ, Đồng Hỷ; vùng sản xuất keo lai ở các huyện: Võ Nhai, Định Hóa… ; vùng chăn nuôi gà thả vườn tại huyện Phú Bình, Định Hóa; vùng chăn nuôi lợn tại TP. Phổ Yên, huyện Phú Bình; vùng chăn nuôi bò tại huyện Định Hóa, huyện Phú Bình; vùng nuôi trồng thủy sản theo mô hình hợp tác xã tại các huyện: Phú Bình, Đại Từ, Định Hóa…
Để nâng cao giá trị các sản phẩm nông nghiệp, việc ứng dụng khoa học -kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ cao và sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm được đẩy mạnh. Người dân trong tỉnh Thái Nguyên đã “dám nghĩ, dám làm”, mở rộng diện tích nhà màng, nhà lưới, đầu tư công nghệ tưới phun, tưới nhỏ giọt có hệ thống điều khiển, sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, sản xuất hữu cơ… Tỉnh cũng đã triển khai nhiều dự án, mô hình trình diễn chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản, như: mô hình sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ, sản xuất na rải vụ, đệm lót sinh học trong chăn nuôi…
Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp của tỉnh cũng tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất với 11 trang thông tin điện tử và 20 hệ thống phần mềm ứng dụng công nghệ - thông tin, chuyển đổi số chuyên ngành vào hoạt động phục vụ công tác5. Nhờ đó, giá trị sản xuất của cây trồng, vật nuôi không ngừng tăng lên.

Để đạt được những kết quả trên, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành và triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, như: Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 21/10/2019 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2019 - 2025, định hướng đến năm 2030; Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển ngành chè Thái Nguyên giai đoạn 2025 - 2030; Đề án Phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030…
Cùng với đó, là chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ lãi suất tín dụng cho các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để thực hiện dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ hợp tác, liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP đạt chuẩn; hỗ trợ ứng dụng khoa học - công nghệ vào phát triển nông nghiệp an toàn, hữu cơ; hỗ trợ phát triển một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh; hỗ trợ xây dựng liên kết chuỗi sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm chủ lực; quảng cáo, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp chủ lực6… Nhờ đó, ngành Nông nghiệp của tỉnh Thái Nguyên luôn đứng ở vị trí cao trong khu vực Trung du và miền núi phía Bắc. Người dân có thu nhập cao và ổn định, kinh tế nông thôn ngày càng khởi sắc, góp phần xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, trong lĩnh vực lưu thông.
Tỉnh Thái Nguyên rất quan tâm đến xây dựng thương hiệu sản phẩm; kết nối tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm, thủy sản; kích cầu tiêu dùng. Chính quyền địa phương và các cơ sở sản xuất đặc biệt coi trọng xây dựng thương hiệu các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là cây chè - cây trồng chủ lực của tỉnh. Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã cấp văn bản bảo hộ cho các sản phẩm chè của tỉnh, như: 1 chỉ dẫn địa lý Tân Cương; 10 nhãn hiệu tập thể, trong đó nhãn hiệu tập thể “Chè Thái Nguyên” đã được bảo hộ tại 6 quốc gia và vùng lãnh thổ (Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc); duy trì việc bảo hộ nhãn hiệu tập thể “Chè Thái Nguyên” tại Mỹ. Chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” được công nhận bảo hộ tại Liên minh châu Âu (EU) thông qua Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA).
Toàn tỉnh có 154 sản phẩm chè được chứng nhận tiêu chuẩn OCOP từ 3 - 5 sao, ứng dụng công nghệ số trong kết nối, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm, hầu hết các sản phẩm chè đạt chứng nhận OCOP đã được kết nối, quảng bá, giới thiệu và tiêu thụ trên sàn thương mại điện tử7. Tỉnh đã xây dựng và triển khai hệ thống phần mềm “Quản lý chất lượng nông sản - Thái Nguyên” với đầy đủ thông tin doanh nghiệp, thông tin sản phẩm; ký kết các chương trình phối hợp trong công tác quản lý chất lượng và kết nối tiêu thụ nông, lâm sản và thủy sản với các tỉnh trong nước, như: Ninh Bình, Nam Định, Nghệ An…
Cùng với đó, tổ chức cho các doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất, chế biến chè gặp gỡ trao đổi, học tập kinh nghiệm, bán hàng với các doanh nghiệp các tỉnh, thành phố của cả nước. Trưng bày, giới thiệu các sản phẩm OCOP, sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu, chủ lực của tỉnh tại các hội chợ, triển lãm trong và ngoài tỉnh. Tiêu biểu như hoạt động tham gia trưng bày, giới thiệu sản phẩm OCOP tiêu biểu và văn hóa trà Thái Nguyên tại Diễn đàn kết nối sản phẩm OCOP vùng đồng bằng sông Cửu Long năm 2024 tại Kiên Giang với trên 200 sản phẩm. Chỉ trong ngày đầu tiên, các hợp tác xã và cơ sở sản xuất của Thái Nguyên đã bán hàng và ký kết tiêu thụ với giá trị trên 1 tỷ đồng. Ngành nông nghiệp cũng đã hỗ trợ gần 1,5 triệu tem dán nhận diện sử dụng mã QR truy xuất nguồn gốc sản phẩm đối với các cơ sở xác nhận chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, sản phẩm đạt chứng nhận OCOP trên địa bàn tỉnh8…
Trong các hoạt động giới thiệu, tiêu thụ nông sản, nhiều đơn vị trong tỉnh đã tổ chức nhiều hoạt động để kết nối người sản xuất với doanh nghiệp, siêu thị, người tiêu dùng trong tiêu thụ nông sản, đặc biệt trên các nền tảng mạng xã hội. Năm 2024, có trên 200.000 hộ sản xuất nông nghiệp được tạo tài khoản để đưa sản phẩm lên giao dịch trên sàn thương mại điện tử (Postmart.vn; Voso.vn) với trên 1.950 sản phẩm, tổng số giao dịch trên 2 sàn đạt hơn 20.000 giao dịch9. Thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại điện tử, liên kết trong giới thiệu và tiêu thụ nông sản, đặc biệt trên nền tảng công nghệ số đã đưa nguồn cung nông sản đến gần với người tiêu dùng, không qua khâu trung gian, thị trường được mở rộng tới nhiều tỉnh, thành phố trong nước và quốc tế; mở ra nhiều cơ hội trong sản xuất nông nghiệp.
Với sự nỗ lực của các cấp chính quyền và Nhân dân trong tỉnh, ngành Nông nghiệp của Thái Nguyên đã đạt được những kết quả đáng tự hào, giá trị sản phẩm gia tăng, đời sống của người dân nông thôn không ngừng được cải thiện. Tuy vậy, ngành Nông nghiệp vẫn còn một số tồn tại, hạn chế.
(1) Giá trị sản xuất và chất lượng của các sản phẩm nông sản chưa cao, số lượng sản phẩm nông sản đáp ứng đủ các tiêu chí về nguồn gốc, xuất xứ, an toàn thực phẩm còn ít. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu theo quy mô nhỏ lẻ, hộ gia đình, rất khó phát triển sản xuất theo quy mô lớn nên gặp khó khăn trong ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất…
(2) Thị trường tiêu thụ của các sản phẩm nông nghiệp không ổn định, tình trạng “được mùa, mất giá” vẫn xảy ra, thu nhập bị ảnh hưởng nên người dân chưa chuyên tâm đầu tư thâm canh vào sản xuất, sẵn sàng phá bỏ những cây trồng lâu năm để chuyển sang giống cây trồng khác khi mất giá… Mặc dù là cây trồng chủ lực, Thái Nguyên dẫn đầu cả nước về sản xuất chè nhưng sản phẩm chè Thái Nguyên vẫn chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, khối lượng và giá trị xuất khẩu ở thị trường quốc tế thấp và có xu hướng giảm do quy mô sản xuất chè còn nhỏ lẻ, chưa có doanh nghiệp lớn làm đầu mối kết nối trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; chưa thu hút được các nhà đầu tư lớn để liên kết sản xuất chè, chế biến sâu các sản phẩm chè, đa dạng hóa sản phẩm.
4. Một số giải pháp phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh Thái Nguyên
Thứ nhất, các cấp, chính quyền trong tỉnh tăng cường tuyên truyền các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp xanh, phát triển bền vững; cải cách hành chính, thực hiện có hiệu quả các chính sách của Trung ương và địa phương về phát triển sản xuất nông nghiệp, hỗ trợ tín dụng, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm… Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp để đáp ứng phát triển sản xuất trong thời kỳ hội nhập.
Thứ hai, trong lĩnh vực sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng năng suất, chất lượng cao. Huy động các nguồn lực, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, xây dựng, phát triển các làng nghề, hợp tác xã; tiếp tục tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, tập trung quy mô lớn, sản xuất an toàn, chất lượng, phù hợp với nhu cầu thị trường; phát triển các sản phẩm chủ lực và thế mạnh của địa phương, đem lại giá trị kinh tế cao, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, ứng dụng quy trình sản xuất thâm canh, VietGAP…
Thứ ba, trong lĩnh vực lưu thông, trao đổi hàng hóa. Tăng cường các hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại cho các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, sản phẩm OCOP, xúc tiến tiêu thụ sản phẩm trên các nền tảng số, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nâng cao giá trị và chất lượng sản phẩm nông nghiệp; tăng cường liên kết “bốn nhà”: Nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nông. Gắn với ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, kinh tế số nhằm kết nối giữa sản xuất, chế biến và thị trường…
Chú thích:1, 2, 3. Tác giả tổng hợp từ nguồn: Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12, quý IV và năm 2024 trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.4. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2025). Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 03/02/2025 về phát triển ngành chè Thái Nguyên giai đoạn 2025 - 2030. 5. Số hóa ngành Nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên: “thực trạng và giải pháp”. https://sonnvptnt.thainguyen.gov.vn/so-hoa-nganh-nong-nghiep-tinh-thai-nguyen-thuc-trang-va-giai-phap.6. Chuyển biến tích cực trong lĩnh vực nông nghiệp của Thái Nguyên. https://thainguyen.gov.vn/bai-viet-thai-nguyen/chuyen-bien-tich-cuc-trong-linh-vuc-nong-nghiep-cua-thai-nguyen/2018.7. Chè Thái Nguyên vẫn chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa. https://dantocmiennui.vn/che-thai-nguyen-van-chu-yeu-tieu-thu-o-thi-truong-noi-dia-post357397.html8. Liên kết nào cho thị trường nông sản Thái Nguyên. https://baothainguyen.vn/kinh-te/202501/lien-ket-nao-cho-thi-truong-nong-san-thai-nguyen-e210961.9. Tạo sức bật và động lực đưa nông sản Thái Nguyên lên các sàn thương mại điện tử. https://thainguyen.gov.vn/bai-viet-thai-nguyen/tao-suc-bat-va-ong-luc-ua-nong-san-thai-nguyen-len-cac-san-thuong-mai-dien-tu?Tài liệu tham khảo:1. C. Mác và Ph. Ăngghen (2002). Toàn tập. H. NXB Chính trị quốc gia. 2. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2021). Đề án: “Phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”.3. Tăng cường vai trò của nhà nước trong công tác quản lý, điều tiết thị trường lao động - nghiên cứu tại tỉnh Thái Nguyên. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/08/01/tang-cuong-vai-tro-cua-nha-nuoc-trong-cong-tac-quan-ly-dieu-tiet-thi-truong-lao-dong-nghien-cuu-tai-tinh-thai-nguyen/