Virus cúm (Influenza virus) thuộc họ Orthomyxoviridae, có thể lây nhiễm từ người sang người, được phân thành ba nhóm chính: A, B và C. Trong đó, nhiễm virus cúm A là nghiêm trọng hơn cả và có thể tạo thành dịch bệnh.
Bài viết được tư vấn Y khoa bởi BS Nguyễn Văn Quảng, Quản lý Y khoa Vùng 4 - miền Bắc, Hệ thống tiêm chủng VNVC.
BS Nguyễn Văn Quảng, Quản lý Y khoa Vùng 4 - miền Bắc, Hệ thống tiêm chủng VNVC cho biết: “Virus cúm là thành viên của họ Orthomyxoviridae - họ đại diện cho các virus có vỏ bọc, bộ gen bao gồm các đoạn RNA chuỗi đơn có ý nghĩa tiêu cực được phân đoạn. Có 4 chi thuộc họ này: A, B, C và Thogotovirus, tuy nhiên trong đó chỉ có chi A và B là có liên quan về mặt lâm sàng đối với con người”.
Virus cúm là gì?
Virus cúm là nguyên nhân gây ra các bệnh về đường hô hấp với các triệu chứng như sốt, đau nhức đầu và cơ thể, có ho, nghẹt mũi hoặc chảy nước mũi, bệnh có thể tiến triển thành các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng khác. Người bệnh có nguy cơ bị các biến chứng nghiêm trọng hơn nếu thuộc các nhóm đối tượng nguy cơ cao như: trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, người trên 65 tuổi, người có tình trạng sức khỏe yếu hoặc phụ nữ mang thai.
Bệnh cúm nguy hiểm do khả năng lây lan nhanh và tạo thành dịch. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) và các đối tác y tế toàn cầu, hằng năm có khoảng 290.000 đến 650.000 ca tử vong liên quan đến cúm mùa. Tỷ lệ tấn công của cúm ở trẻ em là 20-30% và ở người lớn là 5-10%. (1)
Có 3 loại virus cúm ảnh hưởng đến con người, gồm virus cúm A, B và C. Trong đó, virus cúm A và cúm B là những tác nhân gây hàng đầu ở người và có khả năng dẫn đến nhiều đợt dịch bùng phát trên diện rộng. Ngược lại, virus cúm C gây bệnh nhẹ ở người, giống với bệnh cảm lạnh thông thường và không được phát hiện bằng các xét nghiệm cúm.
Ngoài ra, còn có virus cúm D nhưng chủ yếu được tìm thấy ở gia súc và chưa có ảnh hưởng đến con người. Phần lớn các trường hợp nhiễm cúm ở người chủ yếu do virus cúm A và B tạo nên. Đây cũng là những loại virus đã gây ra mùa cúm hằng năm.
Cấu tạo của virus cúm
Bác sĩ Nguyễn Văn Quảng, Quản lý Y khoa Vùng 4 - miền Bắc, Hệ thống tiêm chủng VNVC cho biết, cấu tạo virus cúm có hình dạng tròn (hoặc ở dạng thon dài hoặc hình dạng không đều) và có một lớp gai ở bên ngoài. Có 2 loại gai khác nhau, mỗi loại được tạo thành từ một loại protein - protein hemagglutinin (HA) và protein neuraminidase (NA).
1. Cấu tạo bên ngoài
Protein HA bên ngoài lớp vỏ cho phép virus bám vào tế bào để xâm nhập vào tế bào chủ và bắt đầu quá trình lây nhiễm (tất cả virus đều cần xâm nhập vào tế bào để tạo ra nhiều bản sao của chính nó). Còn protein NA cần thiết để virus thoát ra khỏi tế bào chủ, do đó các virus mới được tạo ra bên trong tế bào chủ có thể tiếp tục lây nhiễm sang nhiều tế bào hơn. Bởi vì những protein này hiện diện trên bề mặt của virus nên hệ thống miễn dịch của con người “có thể nhìn thấy” chúng. (2)
2. Cấu tạo bên trong
Bên trong lớp gai, có tám đoạn hoặc đoạn ARN chứa thông tin di truyền để tạo ra các bản sao mới của virus. Mỗi phân đoạn chứa các hướng dẫn để tạo ra một hoặc nhiều protein của virus. Vì vậy, ví dụ, phân đoạn 4 chứa các hướng dẫn tạo ra protein HA và phân đoạn 6 chứa các hướng dẫn tạo ra protein NA (các phân đoạn được đánh số theo thứ tự kích thước với 1 là lớn nhất).
Khi virus mới được tạo ra bên trong tế bào chủ, tất cả tám phân đoạn cần phải được tập hợp thành một hạt virus mới, để mỗi virus có bộ hướng dẫn hoàn chỉnh để tạo ra một virus mới. Nguy hiểm xảy ra khi có hai loại cúm A khác nhau trong cùng một tế bào và các phân đoạn này cùng nhau tạo ra một loại virus mới.
Đặc điểm của virus cúm
Virus cúm là thành viên của họ Orthomyxoviridae - họ đại diện cho các virus có vỏ bọc, bộ gen bao gồm các đoạn RNA chuỗi đơn có ý nghĩa tiêu cực được phân đoạn. Có 4 chi thuộc họ này: A, B, C và Thogotovirus, tuy nhiên trong đó chỉ có chi A và B là có liên quan về mặt lâm sàng đối với con người.
Tám đoạn gen của virus cúm A và B được bao bọc lỏng lẻo bởi nucleoprotein. Các phức hợp polymerase bao gồm 3 protein polymerase PB1, PB2 và PA nằm ở đầu của nucleocapsid. Những viên nang xoắn ốc này được bao quanh bởi protein ma trận M1 và bởi một lớp vỏ lipid kép có nguồn gốc từ vật chủ, trong đó các glycoprotein bề mặt virus haemagglutinin (HA) và neuraminidase (NA) cũng như protein ma trận M2 được gắn vào.
Vi rút cúm là loại virus có vỏ bọc tương đối dễ bị tổn thương trước các tác động từ môi trường; nhạy cảm với dung môi lipid và chất tẩy rửa và cũng dễ bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và độ pH thấp (tùy thuộc vào loại virus). Virus cúm A có HA không được cắt rõ ràng là ổn định hơn (mất khả năng lây nhiễm ở pH <4,5) so với virus có HA bị cắt (mất khả năng lây nhiễm ở pH <5) [ 2 ].
Đặc điểm nổi bật nhất của virus cúm là sự tiến hóa nhanh chóng dẫn đến tính biến đổi lớn. Theo đặc tính kháng nguyên của protein vỏ, virus cúm A được chia thành một số phân nhóm. Cho đến nay, 16 phân nhóm HA khác nhau và 9 phân nhóm NA khác nhau đã được xác định. Với virus cúm B thì không được chia thành các phân nhóm nữa. Sự tích tụ các đột biến điểm dẫn đến sự biến đổi từng bước của protein virus. Virus cúm B chỉ có một chủng gây bệnh duy nhất, với 2 dòng phổ biến là cúm B/Yamagata và cúm B/Victoria.
Là một trong những loại virus được biết đến là dễ thay đổi nhất, virus cúm có hai cách thay đổi (được gọi là trôi dạt và dịch chuyển). Trôi dạt, hay trôi dạt kháng nguyên, là một sự thay đổi dần dần, liên tục xảy ra khi virus mắc những “sai lầm” nhỏ khi sao chép thông tin di truyền của nó. Điều này có thể dẫn đến sự khác biệt nhỏ trong protein HA hoặc NA. Mặc dù những thay đổi có thể nhỏ nhưng chúng có thể đủ lớn để hệ miễn dịch của con người không còn nhận ra và bảo vệ chống lại các protein bị thay đổi. Đây là lý do tại sao một người có thể bị cúm nhiều lần và tại sao phải tiêm vắc xin cúm hàng năm để chống lại các chủng virus đang lưu hành hiện nay.
Sự dịch chuyển hay sự dịch chuyển kháng nguyên là một sự thay đổi lớn, đột ngột ở virus, tạo ra sự kết hợp mới giữa protein HA và NA. Những phân nhóm virus cúm mới này chưa được phát hiện ở người (hoặc ít nhất là không xuất hiện trong một thời gian dài) và vì quá khác biệt với các virus cúm hiện có nên con người có ít khả năng chống lại. Khi điều này xảy ra và loại phụ mới hình thành sẽ dễ dàng lây truyền từ người này sang người khác, có thể tạo thành đại dịch.

Các chủng virus cúm phổ biến hiện nay
Cúm theo mùa là một trong những bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính do virus cúm gây ra. Có 4 loại virus cúm thông dụng là cúm A, B, C và D. (3)
1. Virus cúm A
Virus cúm A có thể lây nhiễm cho người và các loài động vật khác như cá voi, hải cẩu, ngựa, chim, lợn,… Ngược lại, ở các loài chim hoang dã thì đây là vật chủ tự nhiên của loại virus này. Các virus cúm A có vỏ bọc chứa ba protein màng (HA, NA, M2), một protein ma trận (M1) ngay dưới lớp lipid kép, một lõi ribonucleoprotein (bao gồm 8 đoạn RNA của virus và ba protein - PA, PB1, PB2), cũng như protein NEP.
Virus cúm A được chia thành các phân nhóm dựa trên hai protein màng trên bề mặt của virus. Những protein này được gọi là hemagglutinin (HA) và neuraminidase (NA). Có 18 loại HA khác nhau và 11 loại NA khác nhau (lần lượt là HA1 đến HA18 và NA1 đến NA11).
Mặc dù có nhiều sự kết hợp khác nhau của protein HA và NA nhưng chỉ một phần nhỏ các phân nhóm cúm A (H1N1, H1N2 và H3N2) hiện đang xuất hiện diện rộng ở người. Các phân nhóm khác được tìm thấy ở các loài động vật khác. Ví dụ, H7N7 gây bệnh ở ngựa và H3N8 đã được chứng minh là gây bệnh ở chó và hải cẩu.
Các phân nhóm của virus cúm A được đặt tên theo protein bề mặt HA và NA của chúng. Ví dụ: virus “H3N8” chỉ định một phân nhóm cúm A có protein HA 3 và protein NA 8. Tương tự như vậy, virus “H5N1” có protein HA 5 và protein NA 1.
2. Virus cúm B
Virus cúm B gây ra phổ bệnh giống như cúm A nhưng ít gây ra đại dịch. Sở dĩ như vậy vì có thể do phạm vi vật chủ hạn chế của virus (chỉ có con người và hải cẩu), điều này hạn chế sự xuất hiện của các chủng mới bằng cách tái tổ hợp. Ngoài ra, virus cúm B không được chia thành các phân nhóm, mặc dù có thể được chia thành các dòng. Virus cúm B đang lưu hành hiện nay thuộc một trong hai dòng: B/Victoria và B/Yamagata.
Virion cúm B chứa bốn protein vỏ: HA, NA, NB và BM2. Protein BM2 là kênh proton rất cần thiết cho quá trình tách vỏ (giống như protein M2 của virus cúm A). Protein NB được cho là một kênh ion, không cần thiết cho sự nhân lên của virus trong nuôi cấy tế bào.
Loại virus này chịu trách nhiệm gây ra bệnh tật đáng kể. Ví dụ, tại Hoa Kỳ vào năm 2008, khoảng một phần ba số ca cúm được xác nhận trong phòng thí nghiệm là do cúm B. Đó là lý do tại sao vắc xin cúm hóa trị ba theo mùa có chứa thành phần virus cúm B là thành phần không thể thiếu.
3. Virus cúm C
Virus cúm C khác với virus cúm A và B. Các virus bao bọc có cấu trúc hình lục giác trên bề mặt và hình thành các cấu trúc giống như sợi dây kéo dài (dài khoảng 500 micron) khi chúng phát triển từ tế bào. Tương tự như virus cúm A và B, cốt lõi của virus cúm C bao gồm một ribonucleoprotein được tạo thành từ RNA virus và bốn protein.
Protein M1 nằm ngay bên dưới màng, tương tự như virus cúm A và B. Một protein vỏ virus nhỏ là CM2, có chức năng kênh ion. Loại virus này không chứa các glycoprotein HA và NA riêng biệt, tuy nhiên chức năng của chúng được hợp nhất trong một glycoprotein gọi là HEF (hemagglutinin-esterase-fusion). Do đó, virus cúm C chứa 7 đoạn RNA chứ không phải 8.
Nhiễm virus cúm C gây ra bệnh hô hấp nhẹ (so với các loại virus đường hô hấp thông thường khác) và không được cho là gây ra dịch bệnh. Theo các nghiên cứu về tỷ lệ huyết thanh, gần như tất cả người trưởng thành đều bị nhiễm virus cúm C. Các biến chứng ở đường hô hấp dưới rất hiếm và hiện chưa có vắc-xin phòng bệnh.
4. Virus cúm D
Virus cúm D là loại virus cúm duy nhất ảnh hưởng chủ yếu đến gia súc và thường lây lan sang các loài khác. Kể từ khi mô tả ban đầu về virus cúm D vào năm 2011, loại virus này đã được phát hiện lưu hành trong các đàn gia súc và lợn trên toàn thế giới. Nghiên cứu được thực hiện trong nhiều năm qua đã giúp nâng cao hiểu biết về loại virus cúm mới này (trong đó bò là ổ chứa virus).
Nguyên tắc đặt tên của virus cúm
Theo BS Nguyễn Văn Quảng, trên thế giới có rất nhiều chủng virus cúm khác nhau. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tạo ra một quy ước đặt tên được quốc tế chấp nhận để giúp theo dõi các chủng virus cúm này.
Tên của mỗi loại virus được tạo thành từ:
- Loại kháng nguyên (A, B, C hoặc D)
- Nguồn gốc các vật chủ (như lợn, ngựa, gà,…). Đối với các virus có nguồn gốc từ con người, không có vật chủ nào được chỉ định nguồn gốc.
- Nguồn gốc địa lý
- Số chủng
- Năm thu thập
- Đối với virus cúm A, tên này bao gồm giá trị số của hai loại protein được tìm thấy trên bề mặt virus. Đó là hemagglutinin (HA) và neuraminidase (NA). Ví dụ: Virus cúm A(H1N1) và virus cúm A(H5N1).
- Virus đại dịch năm 2009 được đặt một tên riêng: A(H1N1) pdm09 để phân biệt với các virus cúm theo mùa A(H1N1) lưu hành trước đại dịch.
- Khi con người bị nhiễm virus cúm thường lưu hành ở lợn, những virus này được gọi là virus biến thể và được ký hiệu bằng chữ “v” (ví dụ: virus A(H3N2)v). Ví dụ: virus A/Sydney/05/97(H3N2) là virus cúm A có nguồn gốc ở Sydney, là chủng số 5, được thu thập vào năm 1997 và là phân nhóm H3N2.
Virus cúm lây lan như thế nào?
Virus cúm lây lan qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với người khác bị nhiễm bệnh. Thông qua một số con đường, virus cúm có thể lây lan và khiến nhiều người bị mắc bệnh cúm.
- Từ người ở gần đang ho, hắt hơi hoặc nói chuyện. Các giọt nước có thể dính vào tay bạn hoặc di chuyển trong không khí để đi vào mũi hoặc miệng của bạn. Cúm sau đó di chuyển vào phổi của bạn; (4)
- Bằng cách chạm vào bề mặt bị nhiễm virus cúm, sau đó chạm vào mặt, mũi, miệng hoặc mắt của bạn. Điều này bao gồm những thứ như tay nắm cửa, bàn làm việc, máy tính và điện thoại;
- Bằng cách chạm vào tay, mặt hoặc dịch tiết của người bị cúm, sau đó chạm vào mặt, mũi, miệng hoặc mắt của bạn.
Nếu bị nhiễm bệnh, người bệnh thường sẽ xuất hiện các triệu chứng cúm từ 1 - 4 ngày sau khi tiếp xúc (thời gian ủ bệnh).

Triệu chứng nhiễm virus cúm
Lúc đầu, triệu chứng nhiễm virus cúm có thể giống như triệu chứng của cảm lạnh (sổ mũi, hắt hơi, đau họng). Cảm lạnh thường bắt đầu từ từ nhưng bệnh cúm do virus cúm gây nên có xu hướng xuất hiện nhanh chóng.
1. Các triệu chứng thông thường
Các triệu chứng phổ biến khi nhiễm virus cúm thường có: sốt, đau cơ, ớn lạnh và đổ mồ hôi. Các triệu chứng khác bao gồm:
- Đau đầu;
- Ho khan, dai dẳng;
- Hụt hơi;
- Mệt mỏi, cảm thấy yếu;
- Chảy nước mũi hoặc nghẹt mũi;
- Đau họng;
- Đau mắt;
- Nôn mửa và tiêu chảy (phổ biến ở trẻ em hơn ở người lớn).
Hầu hết những người bị nhiễm virus cúm có thể tự điều trị tại nhà. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp có nguy cơ bị biến chứng, lúc này người bệnh cần đi đến các cơ sở y tế ngay lập tức. Dùng thuốc kháng virus để điều trị có thể rút ngắn thời gian mắc bệnh và giúp ngăn ngừa các vấn đề nghiêm trọng hơn. (5)
2. Các triệu chứng nguy hiểm
Nếu người bệnh có các triệu chứng cấp cứu của bệnh cúm do virus cúm gây ra thì cần đến bệnh viện để chữa trị. Đối với người lớn, các triệu chứng khẩn cấp có thể bao gồm:
- Khó thở hoặc thở ngắn;
- Chóng mặt liên tục;
- Co giật;
- Suy nhược nghiêm trọng hoặc đau cơ;
- Đau ngực;
- Môi hoặc móng chân chuyển sang màu xám hoặc xanh;
- Cơ thể mất nước;
- Các chỉ số cơ thể xấu đi(huyết áp, nhịp tim, nhiệt độ….).
Các triệu chứng cấp cứu ở trẻ em giống tất cả các triệu chứng gặp ở người lớn.
Biến chứng thường gặp của virus cúm
Bản thân virus cúm có thể gây ra các biến chứng hoặc có thể làm suy yếu hệ thống miễn dịch, cho phép vi khuẩn lây nhiễm vào các bộ phận khác nhau trong cơ thể một người (nhiễm trùng thứ cấp). Các biến chứng và nhiễm trùng thứ phát bao gồm:
- Nhiễm trùng tai;
- Sảy thai;
- Viêm xoang;
- Dị tật ống thần kinh (NTD) ở thai nhi trong bụng mẹ;
- Nhiễm trùng phổi nặng (viêm phổi).
Trong một mùa cúm điển hình ở Mỹ do virus cúm, ước tính có khoảng 20.000 - 50.000 người chết vì cúm. Có khoảng 300.000 - 500.000 người khác phải nhập viện vì bệnh nặng. (6)
Cách phòng bệnh cúm
Ngoài việc tiêm phòng để phòng bệnh cúm, một số phương pháp khác có thể giúp gìn giữ sức khỏe trong mỗi mùa cúm, bao gồm:
- <liTiêm
vắc xin
- phòng cúm nhắc lại hằng năm;
<liRửa tay kỹ bằng xà phòng và nước. Ngoài ra, có thể sử dụng chất khử trùng tay chứa cồn;
<liTránh ở gần người khác khi cảm thấy không khỏe, đặc biệt là khi bị sốt;
<liTránh ở gần những người bị bệnh (bất cứ khi nào có thể);
<liTránh chạm vào mắt, mũi và miệng.
<liĐeo khẩu trang trong những tình huống không thể tránh khỏi những người bị bệnh (ví dụ lúc chăm sóc trẻ bị bệnh).
<liCó chế độ ăn uống lành mạnh, tập thể dục thường xuyên và ngủ đủ giấc.
Virus cúm có khả năng thay đổi cấu trúc kháng nguyên liên tục theo chu kỳ hằng năm. Do đó, trẻ em từ 6 tháng tuổi trở lên và người lớn cần tiêm cúm nhắc lại mỗi năm nhằm giảm khả năng mắc bệnh và tử vong do cúm. Các loại vắc xin Tứ giá thế hệ mới tại Việt Nam như Vaxigrip Tetra (Pháp) và Influvac Tetra (Hà Lan) có khả năng phòng 4 chủng cúm mùa phổ biến và nguy hiểm nhất hiện nay: A (A/H3N2, A/H1N1) và B (Yamagata, Victoria). (7)
Gọi ngay Hotline 028 7102 6595 hoặc truy cập fanpage trungtamtiemchungvnvc để được tư vấn và đặt lịch tiêm vắc xin phòng cúm tại VNVC.
Bệnh cúm do virus cúm gây nên có thể được điều trị bằng thuốc kháng virus trong một số trường hợp nhất định. Thuốc kháng virus làm giảm nguy cơ mắc bệnh nghiêm trọng và rút ngắn thời gian bị bệnh. Tuy nhiên, phòng bệnh vẫn hơn chữa bệnh. Để giảm thiểu các tác động tiêu cực của cúm đến sức khỏe, người dân cần tiêm phòng cúm đầy đủ và nhắc lại mỗi năm một lần theo khuyến cáo từ các tổ chức y tế thế giới.